Mọi người thường lo lắng khi đi mua gà chiến không biết đâu là con gà có khả năng thắng cao, không biết đâu là giống gà tốt sau đây tôi sẽ chỉ cho mọi người cách chọn lựa gà một cách tốt nhất nên ở thời đại phong kiến, nhiều quốc gia trên thế giới có tục lệ chơi đá gà cựa sắt còn ngày nay là chơi đá gà trực tuyến một tục lệ thường được các vị vua chúa và quan lại trong triều đình ưa thích.
Ai cũng biết, đặc tính bẩm sinh của gà trống là hiếu chiến. Loại gà trống nào cũng thích kèn cựa nhau, dù ở tình trạng nào: hoang dã ngoài rừng núi hay được dưỡng nuôi trong các gia đình. Tuy nhiên, có một vài giống gà lại hiếu chiến hơn. Một vài loại có sức mạnh hơn. Và đôi khi, trong cùng một loại, lại có những con có dị tướng, có những ngón đòn lạ… mà người ta thường bảo là ‘thần kê’. Đó là lý do thúc đẩy những ai muốn chơi gà chọi thì cần phải tìm tòi và chọn lựa.
1.- Chọn lựa loại gà
Thực vậy, không phải gà nào cũng chọi nhau được. Vì gà chọi là một loại gà đặc biệt, do sự đúc luyện liên tiếp qua nhiều năm nhiều đời. Trong loại gà nầy, người chơi cũng phải dày công kén chọn mới gặp được gà hay. Có nuôi gà hay mới bõ công săn sóc, mới có hy vọng thắng những cuộc chọi nhau và chủ-nhân mới mong đoạt giải trong những ngày hội hoặc đánh cá, trong các cuộc chọi gà đỗ bác.
Thường thì những con gà dị tướng là những con gà hay. Nhưng những dị tướng đó, chỉ có các tay chơi sành sõi mới nhận thấy được. Những con gà được gọi là ‘linh-kê’ hay ‘thần kê’ thường có tướng lạ lùng. Với tướng lạ đó, đấu trăm trận trăm thắng. Đến lúc về già, cái khí-thế oai-hùng ấy cũng không mất. Cho nên, người ta thường dùng chúng để tạo nên những thần-kê con, những linh-kê cháu…
Gà có dị tướng
Trong cuốn ‘Các thú tiêu khiển Việt nam’, tác-giả Toan Ánh Nguyễn văn Toán có cho biết là các tay sành chơi ở nước ta, đã phân-biệt được 27 loại gà có dị-tướng. Sau đây xin đan-cử 5 loại trong 27 loại gà có tướng kỳ lạ đó:
Gà tử-mị: Có 2 loại. Loại gà 1, khi ngủ thì năm ngay đày, sẩy cánh và xuôi giò. Và loại 2, khi ngủ thì đôi giò móc lên cây như dơi.
Gà qui. Hình giống như con rùa. Khi nằm, nó giấu chân đi, co đầu lại, thụt đuôi vào. Ta trông vào thân hình nó, đúng là thân con rùa, chỉ khác một điều là được phủ thêm lượt lông vũ.
Gà độc nhãn, độc dao. Lúc mới sinh ra, chỉ có một mắt một cựa. Những con gà loại nầy thật là hung ác dữ tợn, không bao giờ nao núng trước địch-thủ. Đã chọi nhau thì đến chết cũng không chạy.
Gà mắt ếch mắt mèo. Mắt rất tinh, tránh đòn rất tài và tra đòn rất đúng. Loại gà nầy rất gan lỳ. Nếu bị trọng thương, cũng nằm lỳ chịu chết, nên tục-ngữ có câu: ‘Gà chân xanh mắt ếch, chém chết không chạy’.
Gà tam nhĩ. Gà có 3 lỗ tai. Ở bên trái hoặc bên phải, ngoài lỗ tai thường, còn có một lỗ tai nhỏ. Lỗ tai nầy thường bị lông phủ kín, người lựa gà phải để ý, vạch lông ra mới thấy được.
Khi nhìn một con gà, những tay chơi sành thường chú ý ngay đến sắc lông, tướng mạo, dáng đi, tiếng gáy… của nó. Nhiều con gà, đối với những con mắt người thường, chỉ là những con gà bỏ đi. Nhưng đến tay người sành sỏi nuôi gà thì lại là một con gà có quý tướng. Cho nên, kén chọn được một con gà chọi hay giữa một đàn gà, chẳng khác nào tìm được một vị tướng giỏi giữa chốn ba quân.
Người chơi gà, khi kén chọn gà nòi, trước hết nhắm ở bề ngoài, nghĩa là ở mã gà, nhất là ở màu sắc lông gà. Theo họ, sắc lông gà cũng có nhiều ảnh-hưởng đến sự bền-bỉ, gan lỳ và khôn-ngoan. Năm màu lông thường được lựa chọn là: Nhạn, Xám, Điều, Ô và Nghệ. Vì năm màu nầy thuận với ngũ-hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Người chơi gà cần phải hiểu ngũ-hành của năm sắc gà để biết sự xung-khắc theo nguyên-tắc dịch-lý. Đây cũng là một yếu-tố khi ‘cáp gà’ trong các trận đấu.
Những con gà hay
Đã là gà chọi, thì con nào cũng biết chọi. Nhưng không phải con gà chọi nào cũng là gà chọi hay. Do đó, các tay chơi mới phải lựa chọn, chọn lựa cách rất kỹ-càng.
Con gà hay, trước hết phải có thân hình cân-đối, mạnh-mẽ và gân-guốc. Con gà chắc-chắn gân-guốc khi nhắc bổng lên, cặp giò không lòi chòi lạng quạng. Cổ gà (gọi là cần) phải có bộ xương cho nhặt và ngắn, mỗi khi sờ tới, gà thụt cổ vào dễ dàng. Mỏ gà phải nhỏ, miệng phải sâu, như vậy nó mới lanh lẹ khi mổ địch-thủ. Chân phải lùn, gà mới có những cái đá chắc và mạnh. Lông gà phải cứng, để nó có sức chịu đựng khi giao-phong.
Qua các nét chính-yếu trên, con gà có thể được chọn. Thêm vào đó, gà còn có dị-tướng hay gà nòi nữa là ‘tuyệt cú mèo’. Gà nòi, tức là con cháu của một con gà hay đã được nổi tiếng trước đây. Những con gà hay mà các tay sành chơi ở nước ta thường nhắc đến là:
Tại miền Nam: Gà Bình Định, gà Bà Rịa, gà Bà Điểm, gà Cao Lãnh, gà Kế Sách (Sóc Trăng) v.v… nhưng đặc biệt nổi tiếng nhất là gà Cao Lãnh và gà Bà Điểm. Gà Cao Lãnh thuộc Đồng Tháp. Giống gà nầy lông nhiều, cựa nhọn, bay đá thật nhanh. Còn giống gà Bà Điểm ở Sai gòn thì lông ít, cựa ngắn, nhưng gan dạ vô cùng.
Ngoài miền Bắc: Giống gà Kim-Liên ở khu-vực phía sau Khâm-thiên thuộc Hà-Nội và gà Vân-Hồ ở phía nam Hà-Nội.
Ngày nay, nhiều tay chơi gà tìm cách lấy giống gà hay bằng cách cho lai nhau. Họ ghép mái Bà Điểm với trống Cao-Lãnh, hoặc gà mái Cao-Lãnh với gà trống Bà Điểm v.v… Sự ghép giống nầy sản-xuất ra loại gà lai có đủ các đức-tính của cả gà cha và gà mẹ.
2.- Nuôi dưỡng và huấn luyện
Có thể nói, nuôi gà chọi là một công-phu và cũng là một nghệ thuật. Công-phu vì chính người nuôi phải chịu nhiều sự tốn kém, phải hy sinh thời giờ, tiền bạc để chăm nom và tẩm-bổ cho nó. Là một nghệ thuật, vì họ cần phải biết các phương pháp, không những là cách chăn nuôi mà còn cách huấn luyện nó nữa.
a) Nuôi dưỡng
Gà trống chọi, thường trưởng-thành trong vòng 10 tháng và từ thời-gian nầy trở đi, con gà có thể dự những cuộc giao phong được. Tuy nhiên, các cuộc chọi nhau, chỉ nên hạn chế trong khoảng từ tháng chạp đến cuối tháng tư âm lịch mỗi năm mà thôi. Vì sau tháng thứ tư, chúng bắt đầu thay lông. Và do ảnh hưởng của việc thay lông, nên ở giai đoạn nầy, chúng không thể chiến đấu cách bình thường được.
Khi gà đã mọc đủ lông và lông đã cứng cát (đã già), thì chủ nuôi phải sửa-soạn bộ mã cho nó: tỉa bớt lông cổ, lông nách và ngay cả lông ở hậu môn, còn lông đầu thì hớt sạch. Lấy 4 thứ: ngải cứu, nghệ, muối và phèn chua mài chung với nhau trong chút ít nước và rượu đế rồi tẩm vào thân gà.
Nếu gà quá mập thì cách một ngày lại tẩm một lần. Nhờ ‘vô ngải nghệ’ như vậy mà da thịt con gà sẽ săn lại, có sức chống đỡ và chịu đựng được những đòn địch tấn công.
Phải năng tắm rửa sạch sẽ cho gà. Mùa lạnh thì mỗi ngày một lần. Còn mùa nóng, hai hoặc ba lần một ngày. Khi lông đã khô ráo thi ‘vô ngải nghệ’ cho nó. Ở ngoài miền Bắc, mùa đông khi gặp khí tiết quá lạnh lẽo, người ta sẽ không tắm, vì sợ gà bị bệnh sưng phổi. Có người dùng xác trà Huế hoặc nước lá ổi mà tắm cho nó.
Lúa cho gà ăn, nước cho gà uống phải được sạch sẽ. Nó lại còn phải được, nói theo danh từ nhà nghề, ‘quần sương’ và ‘quần nắng’ nữa. Nghĩa là chủ nuôi phải đem gà phơi sương đêm, phơi nắng ngày để nó hấp-thụ khí thiên-nhiên của trời đất, chịu đựng được sự thay đổi của thời tiết. Vả lại, với sự quần sương quần nắng đó, mã gà lại trông được tươi tốt hơn.
Sau mỗi lần đá độ xong, dù gà ‘ăn độ’ tức đá thắng cuộc hay gà ‘thua vớt’ (tức gà đã từng ăn độ, nhưng nay rủi bị thương, đứng không vững, chủ bồng ra khỏi đấu trường đem về nuôi lại, thì gọi là gà thua vớt) cũng phải được săn sóc ngay.
Trước hết là ‘vỗ hen’ cho nó. Người chủ bồng con gà lên, kẹp chặt nó vào bên hông. Rồi lấy tay nắm đầu gà, dùng ngón trỏ béc lớn mỏ ra. Tay kia cầm khăn sạch có thấm nước, bóp cho nước chảy vào họng gà, rồi ghì đầu nó chúc xuống. Xong, bỏ khăn ra, dùng tay ấy vỗ bì-bạch vào họng gà.
Bao nhiêu nhớt, đàm, dãi, lông, cát trong họng nó sẽ nhểu ra lòng thòng. Khi hết nhểu là họng gà đã sạch thì thôi vỗ. Đoạn lấy một lá trầu tươi, vò nhầu nát, trộn với một cục muối ăn, viên lại nhỏ độ bằng đầu ngón tay út, nhét vào họng cho nó nuốt xuống bọc điều. Làm như vậy sẽ có 2 tác-dụng, một là miệng gà được sạch thêm, hai là viên trầu tươi trộn muối nầy là món thuốc ngừa độc đòn gió.
Tiếp đến là phải vạch cánh, vạch lông tìm các vết thương, xức thuốc, may vá lại (xức teinture d’iode, pénicilline, bột dagénan, bột riou hay dầu gió ‘Nhị Thiên Đường’ cũng được). Sau đó, phải nhốt riêng một nơi nào cao ráo và thanh-vắng và phải ‘cất nước’ trong vài ba hôm đầu, chỉ cho ăn cơm nóng, ướt hột hay tấm cám trộn đặc (nước thật ít). Chừng nào thấy gà lại sức, không bị ké, sẽ cho uống nước dần dần đến khi bình-phục hẳn.
b) Huấn luyện
Không phải con gà trống khi đã lớn lên là chủ đem đi đá ngay với gà lạ trong những độ ăn giải hoặc ăn cá. Nhưng trước đó cần phải biết chuẩn bị hành trang cho nó. Tức là chủ phải huấn luyện nó, mặc dù là miêu duệ giống gà nòi, để tập quen với vũ đài, được bạo dạn, bền bỉ và nhất là tạo cho nó tính hiếu chiến. Rồi đến những ngày gần đấu, phải biết nuôi thúc và ‘nhồi gà’ nữa.
Màn huấn luyện đầu tiên là ‘xổ gà’. Khi con gà lớn lên tới mức chọi được, chủ nhà lựa một đôi gà nhà đồng sức đem ra bịt cựa lại. Nghĩa là lấy vải, lấy bông gòn bọc kín cặp cựa của hai con gà, vô hiệu hoá những cặp cựa đó, dù con nầy có đá trúng con kia. Thả hai chú gà ra để cho chúng đá lẫn nhau. Cuộc đá thử nầy, người trong Nam nói là ‘xổ gà’ còn người ngoài Bắc bảo là ‘vần gà’.
Để cho cặp gà đá nhau một nước hay hai ba nước. Mỗi nước độ mười phút như võ-sĩ đếm hiệp (round). Sau mỗi nước, cho gà nghỉ chừng ba phút, rồi cho đá lại. Xem chừng khi gà đã thấm mệt, đôi chân bết-bát đá không lên nổi nữa thì cho nghỉ luôn, đợi lần sau sẽ xổ lại.
Qua nhiều cuộc ‘xổ’ như thế, gà trở nên gan dạ, tinh khôn, quen chịu-đựng… và vì cuộc đá thử không bao giờ đi đến hồi kết-thúc, tính hiếu-thắng của gà không được thoả-mãn, gà trở nên hiếu-chiến và tự tin vào sức mình.
Mỗi lần đá thử xong, chủ gà lại ‘vỗ hen’ cho gà, làm cho các nhớt dãi trong cổ họng gà tuôn hết cả ra. Chủ gà dùng một chiếc lông gà đã rửa sạch, luồn ngoáy vào trong cổ gà để kéo hết đờm dãi ra. Hết dãi nhớt, gà không còn khò khè khi lâm-trận. Rồi sau đó, chủ nhà ‘vô ngải nghệ’, làm cho tan những chỗ bầm tím.
Trong thời-kỳ huấn-luyện, gà chọi phải ‘xổ’ nhiều lần như thế để chủ gà (sư-kê) biết được sở-trường của chúng, qua những lần đá thử. Có con xuất-sắc về ‘giàn nạp’, ‘đá đầu’; có con giỏi về ‘đá hầu’, ‘đá mé’; nhưng đặc-biệt cũng có những con đá ‘đòn buông’ (Bắc gọi là phóng tiễn) hay ‘đá vỉa tối’ (Bắc gọi là đá đòn luồn).
Gà đá đòn buông là loại gà khi đá địch, nó không cần mổ vào địch trước, như các loại gà khác, nhưng nó luôn vẫn đá trúng địch-thủ. Còn ‘đá vỉa tối’ là con gà tìm cách luồn đầu vào hai bên cánh địch, xuất kỳ bất ý mổ lên vai, lưng hoặc đầu đối thủ, rồi ra một đòn đá chí-tử. Đòn nầy thường nhằm vào hai bên phao câu, lưng và mắt địch.
Như vậy, trong việc nuôi gà chọi, vấn đề huấn luyện rất quan trọng. Không những để gà quen chiến-đấu mà người chủ cũng phải biết sở-trường, sở đoản của nó để liệu sức mà ‘cáp’ (tức ghép gà mình với gà địch) trong các trận đấu.
Nếu gà của mình có ngón ‘đá đầu’ ư? Chủ nhân sẽ lựa một đối-thủ thấp hơn gà mình để nó dễ đá. Nếu gà của mình có đòn ‘đá buông’ ư? Chủ-nhân sẽ tìm cho nó giao-phong với một con gà có ‘đòn luồn’. Con gà địch luồn đầu vào nách, ẩn đầu đi, như vậy chọi với nó, khó mổ được vào đầu nó để phóng đòn lên. Con gà có đòn buông không cần phải mổ vào đầu địch vẫn ra được những đòn mạnh-mẽ, trong khi địch cứ phải luồn mình, rồi mới xuất-kỳ bất-ý tấn-công được. Vì sở-trường con gà nầy có thể áp-đảo được sở đoản con gà kia.
Giai đoạn huấn luyện quan trọng nhất là những ngày con gà sắp ra đá độ. Gà cần được ‘nuôi thúc’ và chủ gà lại phải biết lo ‘nhồi gà’. Ngoài số lúa ăn thường ngày, chủ gà phải cho ăn thêm thịt bò tươi xắt vụn hoặc trứng gà sống. Trứng tươi khẻ một đầu nhỏ bằng mút đũa, đưa sát vào mỏ, là chú gà chọi nhà ta say sưa hút cách ngon lành!
Mỗi ngày, chủ gà ôm con gà để trước mặt. Dùng tay hữu bợ hai ngón dưới ức con gà, nâng nó lên, cẳng gà hỏng mặt đất độ hai ba tấc. Nhồi con gà nhè nhẹ, tập cho nó biết ý thủ-thế trước. Bỗng lẹ làng vừa nhồi mạnh vừa rút tay ra. Con gà mất thăng-bằng sẽ rơi xuống chổng cẳng, nhưng nó phải dùng hai gối, chống chọi thế nào để khỏi té… Đó là cách nhồi gà, tập cho gà cứng gối, cứng chân cẳng, sẵn-sàng ra đấu-trường trong vài hôm nữa.
TÓM LẠI
Trò chơi đá gà đã có từ thuở xa xưa. Khởi-sự từ những vùng văn-minh đầu tiên của nhân-loại, rồi sau đó, được lan truyền đi các nơi. Người ta cho rằng, chính những thương-gia người Phéniciens đã du-nhập gà vào những vùng mà họ có liên-lạc buôn bán, cũng như các đoàn quân đi chinh-phục của người Hy-lạp và La-mã đã đem gà tới những nơi mà họ đã chiếm-cứ được. Việt-nam cũng không ra khỏi thông-lệ đó, đối với ảnh-hưởng của người phương Bắc.
Vào thời phong kiến, thú chơi đá gà nầy, có lúc rất thịnh hành trong nhiều đế quốc, nhất là khi được nhà vua và triều đình ưa thích. Chẳng hạn như ở Anh quốc, vào thế kỷ XVII, dưới triều vua Charles II, những cuộc đá gà đã được đặt thành luật-lệ, mang tầm cỡ quốc-gia, được tổ-chức ngang hàng với những cuộc đua ngựa.
Ở Trung-hoa, từ đời nhà Đường (618-907) đến nhà Nguyên (1280-1341) rồi nhà Thanh (1644-1795)… tục lệ chơi đá gà cũng rầm rộ không kém. Ngay cả đến Việt-nam, dưới đời vua Trần Nhân Tông (1279-1293), các tướng sĩ cũng rất ham mê đá gà…!
Sự ham-mê nầy kéo dài rất lâu. Linh-mục Richard (1778), trong cuốn ‘Histoire Naturelle, Civile et Politique du Tonkin’ đã cho biết: Vào cuối thế-kỷ XVIII, đời chúa Trịnh-Khải (1783-1786), để nuôi gà trống đá, nhà chúa đã đặt một ông quan phụ-trách trông coi. Nếu vị quan nầy lơ-là trong việc nuôi-dưỡng và huấn-luyện gà, sẽ bị trừng phạt rất nặng.
Chơi đá gà, dù ở phương Đông hay phương Tây, không chỉ là một trò chơi giải trí, mà kèm theo đó, có việc đánh cá, một lối chơi cờ bạc. Không biết có phải vì cờ bạc mà nhiều nước trên thế giới đã có luật lệ cấm ngăn? Hay ngăn cấm, chỉ vì cho rằng, đó là trò chơi dã man? Nhưng dù sao chăng nữa, hiện giờ cũng vẫn còn có nhiều nước và nhiều miền tổ-chức.
Comments are closed.